Đã bao đời nay, đối với đồng bào các dân tộc sống trên dãy trường sơn nói chung và đồng bào Xê Đăng, Ca Dong, Mơ Nông ở Nam Trà My nói riêng, xem tiếng cồng, tiếng chiêng là sự sáng tạo độc đáo, là hồn núi mang âm vang linh thiêng trong đời sống sinh hoạt. Cùng với đó là những loại nhạc cụ được chế tác từ xa xưa như đàn pron ló, pron moon, prot teng, kèn môi… kèm theo những làn điệu dân ca hết sức phong phú dùng để khắc họa đời sống sản xuất, sinh hoạt nơi đại ngàn. Theo Trưởng phòng Văn hóa – Thông tin Nam Trà My Dương Trinh khẳng định “ Đồng bào ở Nam Trà My xem cồng chiêng là văn hóa tâm linh, rất ý nghĩa. Mỗi khi tiếng cồng chiêng ngâng lên chắc chắn sẽ có lễ hội. Âm vang cồng chiêng của đồng bào có giai điệu mượt mà, ngân nga. Trước khi lấy cồng chiêng ra đánh, mọi người đều phải sắm lễ vật cúng xin phép ông bà để tỏ lòng thành kính với gia sản cha ông để lại”. Cũng theo ông Trinh, những năm qua nét văn hóa này đang có nguy cơ mai một. Số người biết đánh cồng chiêng không nhiều. Các bộ cồng chiêng trong nhân dân cũng bị ít dần do buôn bán, trao đổi; chôn theo người chết (tục chia tài sản); hư hỏng, thất lạc. Chính vì vậy nên việc bảo tồn là nhiệm vụ cấp thiết dược huyện quan tâm. Bằng cách tổ chức liên hoan nghệ thuật cồng chiêng, địa phương đã khởi động lại công tác bảo tồn. Từ ngày tái lập huyện đến nay, huyện đã tổ chức 2 lần liên hoan nghệ thuật cồng chiêng và 1 lễ hội đâm trâu cấp huyện. Mỗi lần liên hoan như vậy có tới hàng trăm nghệ nhân các xã đến trình diễn nghệ thuật truyền thống của dân tộc mình. Nổi bật như lễ “Cúng lúa mới” của xã Trà Dơn với hình ảnh 5 cặp đôi nam – nữ nhảy múa cồng chiêng vây quanh vị già làng đọc bài cúng tạ ơn thần linh đã ban phát may mắn, mùa màn bội thu. Lễ vật tế thần là một đầu heo kèm theo rượu cần, trầu cau, cơm lam, mía… Đội cồng chiêng xã Trà Leng thì biểu diễn bài múa truyền thống của người Mơ Nông tạ ơn thần linh đã che chở, bảo vệ dân làng. Âm vang cồng chiêng của người Mơ Nông rất hối hả, thúc giục, kèm theo đó là điệu múa chụp – xòe của các thiếu nữ tạo nên nét đắc sắc riêng biệt. Cũng giống như các đội cồng chiêng khác, trong quá trình biểu diễn, các đôi nam nữ Mơ Nông tay mang cồng chiêng vừa đánh vừa nhảy múa quanh một vòng tròn. Già làng đứng giữa đọc bài cúng: “Ta gọi ông ta từ đất lở, núi mòn, về đây cùng vui với dân làng. Ta gọi ông ta từ sông sâu, đá cạn, về đây cùng ăn ngon với hàng xóm, láng giềng…”
Múa cồng chiêng cúng lúa mới của người Ca Dong. Ảnh: H.Thọ
Thường thì một bài múa cồng chiêng được kéo dài từ 15 đến 20 phút, tùy vào chủ đề cũng như nét riêng của mỗi dân tộc. Ông Hồ Văn Hai, nghệ nhân cồng chiêng xã Trà Nam chia sẻ: ngày xưa mỗi khi trong làng có lễ hội, cha ông chúng tôi đều mang cồng chiêng ra đánh để báo hiệu cho thần linh biết về chứng giám, nhất là trong các lễ mừng lúa mới, lễ đâm trâu, lễ cúng máng nước… Đến hôm nay số lượng người biết đánh và múa cồng chiêng còn rất ít, thế hệ trẻ bây giờ chưa chú tâm đến việc gìn giữ linh hồn cha ông để lại. Do đó liên hoan là dịp giúp chúng tôi biểu diễn nét văn hóa đặc sắc của tổ tiên, khơi dậy niềm đam mê tiếng cồng, tiếng chiêng cho lớp trẻ để chung tay gìn giữ gia sản tinh thần của cha ông. Thông qua các lần tổ chức liên hoan nghệ thuật cồng chiêng cho thấy hiện kho tàng văn hóa phi vật thể và vật thể trong nhân dân ở Nam Trà My vẫn còn khá phong phú. Tuy rằng các hoạt động biểu diễn ngày càng ít dần nhưng số nghệ nhân, diễn viên lưu giữ được văn hóa truyền thống còn khá nhiều. Đây chính là điều kiện hết sức thuận tiện để thực hiện công tác bảo tồn và phát huy văn hóa đặc sắc đồng bào. Ông Lê Ngọc Kích – Phó chủ tịch UBND huyện khẳng định: Dù đời sống vật chất của bà con còn nhiều khó khăn nhưng mỗi khi tổ chức liên hoan đã thu hút đông đủ các nghệ nhân, diễn viên không chuyên tham dự. Thông qua đó, chúng tôi mong muốn khơi dậy truyền thống đoàn kết, tinh thần ý thức trách nhiệm trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc của nhân dân”. Một điều thuận tiện nữa là hiện tại một số hộ gia đình ở Trà Nam, Trà Linh, Trà Cang… người già vẫn đang truyền cách đánh, múa cồng chiêng lại cho thế hệ trẻ. Như hộ ông Lê Xuân Phân ở nóc Tắk Pốc (thôn 1 xã Trà Cang) có tới 2 bộ cồng chiêng và thường xuyên tổ chức luyện tập, truyền đạt lại cho con cháu. Rồi những dịp chính quyền tổ chức lễ, hội hoặc khánh thành công trình dân sinh, dân làng cũng múa cồng chiêng để chào mừng. Thông qua các hoạt động đó đã góp phần bảo tồn được âm vang hồn núi từ tiếng cồng chiêng của bà con đồng bào các dân tộc.
Động cồng chiêng Mơ Nông (xã Trà Leng) trong lễ mừng tết mùa. Ảnh: H.Thọ
Đầu tư
Cùng với việc bảo tồn, lưu giữ văn hóa cồng chiêng thì huyện Nam Trà My cũng đã có những việc làm cụ thể nhằm đầu tư cho di sản này trở nên phong phú, đa dạng. Theo ông Dương Trinh cho biết, đối với bà con người Ca Dong, Mơ Nông thì bộ cồng chiêng gồm 3 chiêng và 1 trống; người Xê Đăng thì 9 chiêng 1 trống. Theo khảo sát thì hiện toàn huyện còn khoảng 35 đội cồng chiêng/ 243 nóc. Có nhiều nơi như thôn 1, thôn 2 xã Trà Mai đã lâu không thấy người dân sinh hoạt. Vì vậy huyện đã dành 100 triệu để mua cồng chiêng cấp cho những làng nóc đang thiếu. Mục đích là giúp bà con có cồng chiêng để luyện tập, biểu diễn và lưu truyền. Để cho các bộ cồng chiêng đáp ứng với nhu cầu hưởng thụ của dân làng, trong quá trình đầu tư huyện cũng đưa các nghệ nhân xuống cơ sở sản xuất để thẩm âm, chọn những bộ cồng chiêng ưng ý nhất.
Đội cồng chiêng trẻ ở thôn 5 xã Trà Nam biểu diễn. Ảnh: H.Thọ
Cùng với đó, huyện cũng đề ra lộ trình đầu tư nhằm lưu giữ nét văn hóa đắc sắc của đồng bào bản địa bằng cách khuyến khích các nghệ nhân dành nhiều thời gian truyền đạt kỹ năng biểu diễn cồng chiêng cho thế hệ trẻ; thường xuyên tổ chức các lễ hội lồng ghép với các sự kiện chính trị - xã hội để biểu diễn cồng chiêng nhằm thu hút và gây niềm đam mê cho nhân dân; huyện cũng có kế hoạch đưa nét văn hóa này vào các trường có con em người dân tộc để giảng dạy. “Phải quan tâm nhiều hơn nữa cho nghệ thuật cồng chiêng ngay từ bây giờ để giữ được cái hồn cho người dân miền núi. Một khi nét văn hóa tiêu biểu này bị mai một thì việc bảo tồn rất khó khăn, tốn rất nhiều thời gian cũng như kinh phí” – ông Dương Trinh khẳng định.
Trải qua thời gian sinh hoạt và sản xuất, tiếng cồng tiếng chiêng đã ăn sâu vào tâm thức người dân Nam Trà My. Nó được các thế hệ trân trọng gìn giữ và lưu truyền từ đời này sang đời khác. Và những cố gắng trong công tác bảo tồn, đầu tư của huyện đã góp sức giữ gìn và phát huy âm vang hồn núi nơi đại ngàn.